• 1
  • 3
Tỉnh đoàn Kiên Giang - Diễn đàn của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Hội LHTN Việt Nam, Đội TNTP HCM tỉnh Kiên Giang
Các đơn vị tài trợ website
Liên kết website

Sau khi giành được độc lập, vấn đề cơ bản nhất đặt ra cho Đảng và Nhà nước ta là giữ vững chính quyền trước sự tấn công điên cuồng của kẻ thù cùng những thế lực nguy hiểm, từng bước xây dựng chế độ mới, đưa cách mạng vững bước tiến lên.

Trên đất nước Việt Nam chưa bao giờ có nhiều kẻ thù như lúc này. ở miền Bắc, từ tháng 8 đến đầu tháng 9/1945 khoảng 200.000 quân Tưởng Giới Thạch với danh nghĩa Đồng minh tràn vào chiếm đóng Thủ đô Hà Nội và hầu hết các thành phố, thị xã từ biên giới Việt - Trung đến vĩ tuyến 16. Chúng tập hợp tất cả các lực lượng phản cách mạng để chống phá, lật đổ chính quyền cách mạng.

ở miền Nam, ngày 23/9, quân Pháp được quân Anh, quân Nhật yểm trợ bắt đầu nổ súng đánh chiếm Sài Gòn rồi mở rộng dần ra các tỉnh Nam Bộ, Nam Trung Bộ.

Nhà nước ta đứng trước tình thế cực kỳ khó khăn, thiếu thốn từ tài chính, lương thực đến vũ khí, thuốc men... Nạn đói khủng khiếp năm 1945 làm hơn 2 triệu người chết; 50% ruộng đất ở đồng bằng Bắc Bộ bị bỏ hoang, sản xuất công nghiệp bị đình đốn, hàng vạn công nhân không có việc làm, nền tài chính khánh kiệt, kho bạc trống rỗng.

Trước tình hình đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì phiên họp Ban Thường vụ Trung ương Đảng và vạch ra những phương hướng, biện pháp đầu tiên để xây dựng chế độ mới và đối phó với các lực lượng đế quốc, phản động.

Theo phương hướng đó, ngày 3/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh triệu tập phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ và nêu ra 6 việc cấp bách cần làm ngay.

Tiếp đó, trong bức thư gửi cho bà con nông dân cả nước, Hồ Chủ tịch lại nêu lên 2 nhiệm vụ cấp bách trước mắt: “Cứu đói ở Bắc và kháng chiến ở Nam... vì cứu quốc, các chiến sĩ đấu tranh ở ngoài mặt trận, vì kiến quốc, nhà nông phấn đấu ngoài đồng ruộng”.

Ngày 25/11/1945, Ban Thường vụ Trung ương ra Chỉ thị: “Kháng chiến, Kiến quốc”, đề ra nhiệm vụ chủ yếu của cách mạng Việt Nam lúc này là củng cố chính quyền, chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống cho nhân dân...

Theo đề nghị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng đã phát động phong trào quần chúng tăng gia sản xuất, chống đói, chống nạn mù chữ.

Hưởng ứng lời kêu gọi chống giặc đói của Hồ Chủ tịch, thanh niên cả nước tích cực tham gia các đoàn vận động lạc quyên cứu đói, hưởng ứng: Hũ gạo cứu đói, Ngày đồng tâm nhịn ăn... để giúp đồng bào bị đói.

Mở đầu phong trào tăng gia sản xuất, Hồ Chủ tịch kêu gọi:

“Tăng gia sản xuất! Tăng gia sản xuất ngay! Tăng gia sản xuất nữa! Đó là khẩu hiệu của chúng ta ngày nay. Đó là cách thiết thực của chúng ta để giữ vững quyền tự do, độc lập”.

Với khẩu hiệu “Không một tấc đất bỏ hoang”, “Tấc đất, tấc vàng”, phong trào thi đua sản xuất dấy lên ở khắp các vùng nông thôn, đồng bằng, trung du, miền núi và ở cả các thành phố, thị trấn. Hàng nghìn thanh niên tổ chức thành các đội sản xuất đi khai hoang, phục hoá ruộng đất, bảo vệ đê điều, trồng các cây lương thực ngắn ngày. Tại Hà Nội, thanh niên tận dụng những bãi đất nhỏ ven công viên, các bãi bồi ven sông Hồng đến những thửa ruộng hoang hoá ở ngoại thành để trồng lúa, trồng màu, các đội thanh niên đi về nông thôn, lên miền trung du, miền núi để tham gia sản xuất lương thực...Những hoạt động tích cực của thanh niên đã góp phần nhanh chóng khôi phục sản xuất nông nghiệp, đẩy lùi nạn đói.

Sau Cách mạng Tháng Tám, một trong những việc mà Hồ Chủ tịch quan tâm là phát động một cao trào toàn dân chống nạn mù chữ để mở mang kiến thức cho nhân dân lao động. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Vì vậy, tôi đề nghị mở một chiến dịch chống nạn mù chữ” Người giao nhiệm vụ cho thanh niên: “Công việc này, mong anh chị em thanh niên sốt sắng giúp sức”.

Thanh niên là lực lượng nòng cốt trong phong trào diệt giặc dốt. ở Hà Nội, hơn 2.000 đoàn viên, thanh niên, phần lớn là học sinh, sinh viên tình nguyện làm giáo viên các lớp bình dân học vụ. Trong một thời gian ngắn, có 74.957 lớp học được tổ chức với 95.665 thanh niên tham gia làm “Chiến sĩ diệt dốt”. Chỉ sau một năm đã có 2,5 triệu người thoát nạn mù chữ. Hệ thống giáo dục phổ thông và đại học cũng được xây dựng và từng bước phát triển. Tiếng Việt được dùng trong các văn bản chính thức của Nhà nước và trong việc học tập, giảng dạy ở các trường, lớp.

Tháng 9/1945, nhân ngày khai trường năm học đầu tiên sau cách mạng thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho học sinh dặn dò các cháu cố gắng, siêng năng học tập, ngoan ngoãn nghe lời thầy cô, thi đua với bạn để sau này đem tài năng đóng góp vào công cuộc xây dựng đất nước.

Người viết: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các cháu”

Ngày 11/5/1945, Bộ Quốc gia Giáo dục ra quyết định khai giảng năm học mới của các trường đại học tại Hà Nội do đội ngũ giáo sư trẻ tuổi người Việt Nam giảng dạy để đào tạo lớp cán bộ có trình độ học vấn cao cho nước nhà.

Mặc dù bộn bề công việc sau ngày nước nhà vừa giành được độc lập, Bác vẫn giành thời gian tiếp đoàn đại biểu của Tổng hội Sinh viên Cứu quốc Hà Nội vào chiều ngày 6/9/1945.

Đối với việc học tập, rèn luyện và chăm lo đời sống của sinh viên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành sự quan tâm chăm sóc hết sức ân cần. Anh chị em sinh viên yêu nước ở Hà Nội vui mừng, sung sướng khi nghe tin Chủ tịch Hồ Chí Minh sắp về Hà Nội. Đúng vào tối ngày 22/8, sinh viên các trường đại học, cao đẳng ở Hà Nội, những người đã là đoàn viên, đứng trong tổ chức của Tổng Hội Sinh viên hoặc đã tham gia hoạt động công khai cùng đông đảo sinh viên tập hợp đông nghịt tại tầng dưới ngôi nhà trước đây là toà soạn một tờ báo của Pháp. Chủ trì cuộc họp là anh Dương Đức Hiền, nguyên Hội trưởng Tổng Hội Sinh viên đầu những năm 40, giờ đây là cán bộ lãnh đạo của Mặt trận Việt Minh. Trong buổi họp ấy, sự kiện quan trọng là lễ ra mắt công khai của Tổng Hội Sinh viên Cứu quốc thay cho Tổng Hội Sinh viên trước đây. Ban Thường vụ của Tổng Hội Sinh viên Cứu quốc gồm các đảng viên, đoàn viên và các sinh viên yêu nước được giới thiệu trong tiếng hoan hô nhiệt liệt của những người dự cuộc họp. Ban Thường vụ Tổng Hội Sinh viên Cứu quốc giới thiệu sơ lược về chương trình hoạt động của Hội, kêu gọi sinh viên đem nhiệt huyết cống hiến cho cách mạng và tích cực ủng hộ Mặt trận Việt Minh. Ban Thường vụ cũng giới thiệu tờ báo mới của sinh viên lấy tên là Gió mới thay cho báo Tự trị trước đây. Đây là tờ báo đầu tiên của sinh viên Việt Nam sau Cách mạng Tháng Tám. Nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh vốn có chân trong ban phụ trách báo Tự trị được Thường vụ Trung ương Hội phân công làm chủ nhiệm kiêm chủ bút báo. Báo chuẩn bị ra số đầu tiên thì cũng là lúc toàn thể sinh viên được tin việc tổ chức cuộc mít tinh lớn tại Hội trường Ba Đình để nghe Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản “Tuyên ngôn độc lập lịch sử”. Ban Thường vụ Trung ương Hội yêu cầu báo in gấp hàng nghìn tờ truyền đơn kêu gọi sinh viên siết chặt hàng ngũ đến dự buổi lễ trọng đại này mang theo hàng chục băng rôn lớn với khẩu hiệu: “Việt Nam độc lập muôn năm”, “ủng hộ Chính phủ Lâm thời Hồ Chí Minh”, “ủng hộ Việt Minh” v.v… Sau đó, Ban Thường vụ Tổng Hội Sinh viên Cứu quốc gửi một bức thư lên Hồ Chủ tịch nhiệt liệt chào mừng Chính phủ Lâm thời và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chỉ mấy hôm sau, Bác Hồ có thư trả lời. Người nói lên sự cảm động của mình khi nhận được thư của đoàn thể sinh viên, một đoàn thể đứng trong Mặt trận Việt Minh, Người hoan nghênh tinh thần yêu nước của anh chị em, chúc anh chị em sinh viên học giỏi, đoàn kết và hoạt động hăng hái, vững vàng đi theo sự nghiệp cách mạng của toàn dân. Đặc biệt trong thư, Bác đồng ý tiếp một đoàn đại biểu thay mặt anh chị em sinh viên đến gặp Bác. Ban Thường vụ Tổng Hội Sinh viên Cứu quốc báo cáo ngay lên Văn phòng của Bác là đoàn đại biểu đã sẵn sàng chờ Chỉ thị.

Thật hết sức bất ngờ và biết bao sung sướng, chiều ngày 6/9/1945, nghĩa là chỉ sau 4 ngày Bác đọc Tuyên ngôn độc lập lịch sử, đoàn đại biểu Tổng Hội Sinh viên Cứu quốc đã vinh dự gặp Bác tại Bắc Bộ phủ. Hồi ký của đồng chí Nguyễn Xuân Sanh, Uỷ viên Ban Thường vụ Tổng Hội, một trong những thành viên của đoàn đại biểu kể rằng: “Vào đến phòng khách lớn của Bắc Bộ phủ, chúng tôi gặp bác sĩ Tôn Thất Tùng vừa vào tiêm thuốc cho Bác đi ra, tay anh cầm chiếc áo khoác trắng. Quặt sang tay phải vào phía sau dẫn đến phòng Bác, thấy cửa kính đang khép, tôi đưa tay nhẹ nhàng gõ cửa. Người bước ra bắt tay chào chúng tôi là anh Võ Nguyên Giáp. Anh cười nói: “Tôi cũng là cựu sinh viên đây, các anh cứ vào, Cụ Chủ tịch đang đợi”. Bác hơi gầy, xanh, im lặng đi mấy bước ra gặp chúng tôi. Đôi mắt Bác sáng ngời, Bác mặc chiếc quần soóc cũ. Lòng tôi bồi hồi, trông thấy Bác như thấy người Cha đi xa lâu mới trở về. Bác dặn dò tuổi trẻ trí thức mà chúng tôi lúc ấy có hạnh phúc được làm đại diện:

- Anh chị em sinh viên có nghe thấy lời kêu gọi của đất nước không? Nó giục giã chúng mình như cơn thác lũ cuộn sông Hồng, sông Đuống mà hôm ở căn cứ địa trở về Thủ đô Bác đã trông thấy. Đất nước mình thì bao la, mà dân ta đã bị đói nghèo xơ xác không biết bao nhiêu thế kỷ rồi.

Với nét mặt trầm ngâm, Bác nói tiếp:

- Quê hương chúng ta hùng vĩ, người đông. Chúng ta cùng đứng lên với tất cả loài người, đánh đuổi thực dân, quân phiệt ngay giữa thế kỷ XX đâu phải dễ. Nhưng ta quyết tâm làm, và ta có dũng khí của cha ông thì nhất định được. Ta phải nghe tiếng gọi 4000 năm của đất nước. Giặc cam tâm làm dân ta chết đói hơn 2 triệu người. Ta phải cố gắng làm cho đồng bào ta yêu đời và không ai bị chết đói nữa”.

Bác còn ân cần nhắc nhở, với một giọng nói nhẹ nhàng và thân thiết, chúng tôi tưởng như được lắng nghe lời dạy của cha ông: “Tuổi trẻ sinh viên hẳn còn thấy trong mình nhức nhối khi nhiều bà con, nhân dân còn đói chữ, phải quờ quạng như mù. Họ không được đọc sách báo nên cái gì cũng như đêm tối âm u. Ta phải làm cho đồng bào tìm được con đường đi cùng với cách mạng”.

Cả đoàn ra về, ai nấy đều muốn được nán lại lâu bên Bác thêm những phút giây nữa. Xúc động trào dâng, nhà thơ sinh viên Nguyễn Xuân Sanh đã viết bài thơ Đất nước trong đó có đoạn:

 …Lời Bác nói giữa Thủ đô Hà Nội
 Trái tim chúng con đập với triệu triệu trái tim
 Chúng con ngồi bên Bác trong nhiều phút lặng im.

Đầu năm 1946, mặc dù tình hình chiến tranh ngày càng phức tạp nhưng để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân và đập tan sự xuyên tạc của kẻ thù, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định Tổng tuyển cử trong cả nước để bầu ra Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam độc lập, xây dựng Hiến pháp của Nhà nước Dân chủ Cộng hoà.

Ngày 6/01/1946 cuộc Tổng tuyển cử được tổ chức trên khắp mọi miền đất nước.

Cuộc Tổng tuyển cử thật sự là cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc gay go, quyết liệt bởi thù trong, giặc ngoài đang tìm cách lật đổ chính quyền non trẻ. Nhiều cán bộ, đoàn viên, thanh niên phải hy sinh trong khi làm nhiệm vụ tuyên truyền, vận động và bảo vệ cuộc Tổng tuyển cử.

Mặc dù địch ra sức phá hoại, cuộc bầu cử đã thu được thắng lợi to lớn. Tỷ lệ người đi bầu rất cao, trung bình là 86%, nhiều nơi đạt trên 90%. Những đại biểu do Mặt trận Việt Minh giới thiệu đều trúng cử với số phiếu cao nhất. Chủ tịch Hồ Chí Minh ứng cử tại Thủ đô Hà Nội được cử tri tín nhiệm với 98,4% số phiếu bầu. Nhân dân cả nước đã bầu ra 333 đại biểu vào Quốc hội khoá đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Đại biểu Quốc hội trẻ nhất là Nguyễn Đình Thi, 21 tuổi, là nhà thơ, nhạc sĩ, một thanh niên trí thức hoạt động tích cực trong phong trào thanh niên học sinh yêu nước ở Hà Nội.

Trước tình hình thực dân Pháp nổ súng tấn công ta ở Nam Bộ, bọn Tưởng Giới Thạch muốn lợi dụng cơ hội này để thôn tính nhanh miền Bắc Việt Nam. Đầu tháng 10/1945, Hà ứng Khâm - Tổng Tham mưu trưởng quân đội Tưởng Giới Thạch đến Hà Nội để thực hiện âm mưu nói trên. Nhưng trước cuộc biểu dương lực lượng của hơn 300.000 thanh niên và nhân dân Thủ đô với đội ngũ chỉnh tề, băng cờ biểu ngữ rợp trời, hô vang khẩu hiệu: “Nước Việt Nam của người Việt Nam”, “ủng hộ Chính phủ Lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà”, “ủng hộ Việt Nam độc lập Đồng minh”, “ủng hộ Chủ tịch Hồ Chí Minh”... Hà ứng Khâm phải chùn tay trong việc thực hiện ý đồ thâm độc của y.

Ngày 23/9/1945, thực dân Pháp nổ súng đánh chiếm Sài Gòn - Gia Định rồi sau đó đánh rộng ra cả Nam Bộ, Nam Trung Bộ với sự ủng hộ của quân Anh. 7 giờ sáng 23/9, Xứ uỷ và Uỷ ban Hành chính Nam Bộ (sau đổi thành Uỷ ban Kháng chiến) họp khẩn cấp tại phố Cây Mai (Chợ Lớn) có đồng chí Hoàng Quốc Việt thay mặt Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh tham dự. Hội nghị quyết định phát động toàn thể nhân dân tiến hành kháng chiến chống quân xâm lược. Uỷ ban Kháng chiến Nam Bộ được thành lập, ra lệnh Tổng bãi công, bãi thị, bất hợp tác với địch, phong toả địch...

Tuổi trẻ Nam bộ cùng nhân dân Nam Bộ không tiếc xương máu, anh dũng bước vào cuộc kháng chiến lâu dài, gian khổ.

Đêm 23/9/1945, một đơn vị thanh niên cảm tử đã bảo vệ các đồng chí cán bộ của Trung ương Đảng, Xứ uỷ và Uỷ ban rút ra khỏi thành phố an toàn. Các tầng lớp thanh, thiếu niên đều tham gia vào các tổ chức chiến đấu và phục vụ chiến đấu, tiến hành cuộc chiến tranh du kích ngay trong thành phố. Nhiều tỉnh Nam Bộ đưa lực lượng thanh niên về góp sức với Sài Gòn chống quân xâm lược. Nhiều trận đánh làm địch hoảng sợ như trận phục kích khu quân sự ở vùng ngoại ô Tân Định ngày 24/9/1945, diệt 200 tên; trận tấn công bất ngờ trại lính Pháp trên đường Divuê (Hùng Vương ngày nay) diệt 100 tên, trận phục kích ở Gò Vấp ngày 28/9/1945, bắn chết tên đại tá Diuy. Ngày 30/9/1945, đội TNXP Đoàn Dũng và Đoàn Tiến phục kích tại cầu chữ Y diệt 2 xe chở đầy lính Pháp; ngày 25/9/1945, một đội du kích phá Khám lớn giải phóng tù chính trị, đột nhập vào tận nhà tên Đờli Nhông diệt 3 sĩ quan địch.

Nhiều tấm gương hy sinh anh dũng tuyệt vời của tuổi trẻ Sài Gòn đã động viên tinh thần giết giặc cứu nước của nhân dân cả nước. Đó là một tổ du kích gồm 3 thanh niên đang làm nhiệm vụ trong nội thành, bất ngờ gặp địch. Anh tổ trưởng phân công đối phó ngay: “Tao tay không đi trước cho nó bu lại xét, thằng thứ hai ném lựu đạn, còn một đứa về báo cáo. Dầu có hy sinh một đứa chẳng hề gì”. Sáng hôm sau, các báo đưa tin: “Tại đầu đường Galiêni một tổ du kích đánh lựu đạn diệt 10 tên Pháp, ta có 2 chiến sĩ hy sinh”. Một thiếu niên đi rải truyền đơn trong trại lính chẳng may bị bắt. Tên sĩ quan Anh tra hỏi, em trả lời rõ ràng: “Người sung sướng là được chết cho Tổ quốc... Lúc này tôi chỉ nghĩ một điều như vậy”. Tên sĩ quan Anh ra lệnh thả em về.

Số lần đọc: 1581

Tin liên quan